13 tháng 1 năm 2012 - Hoàng Thị Ngọc Khuê - CLB Hoa Sứ Trắng (lược dịch)
Các bác sĩ ở Ấn Độ đã xác định một chủng lao "không có thuốc chữa", gây thêm lo ngại về việc kháng thuốc ngày càng tăng với bệnh này. Mặc dù các báo cáo gọi chủng này là một “thực thể mới”, các nhà nghiên cứu cho rằng đó là kết quả của biến thể trong một thời gian dài.
Phát hiện này khiến Ấn Độ trở thành quốc gia thứ 3 xuất hiện một chủng lao "kháng thuốc hoàn toàn", đứng sau các trường hợp ghi nhận ở Ý năm 2007 và Iran năm 2009.
Một chủng lao "không thuốc chữa" đã được phát hiện ở Ấn Độ,Atul Loke/Panos
Tuy nhiên, dữ liệu về bệnh lao kháng thuốc hoàn toàn (TDR-TB) rất ít, và các báo cáo chính thức chưa thể cung cấp một chỉ số hợp lí về tỉ lệ hiện mắc của căn bệnh. Ông Giovanni Migliori, giám đốc của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Trung tâm Hợp tác về các bệnh Lao và Phổi ở Tradate, Ý, cho rằng bệnh TDR-TB là một dạng trở lại nhưng nguy hiểm hơn của những chủng lao siêu kháng thuốc đã được báo cáo ngày càng nhiều trong những thập kỉ vừa qua. Ông còn nói “Chủng lao kháng thuốc hoàn toàn không hề mới chút nào”.
Từ những năm 1960, 2 loại thuốc — isoniazid và rifampicin — đã được xem là phương pháp chuẩn để điều trị lao. Trong những năm 1990, mặc dù các chủng kháng thuốc xuất hiện theo chu kì, tỉ lệ kháng đa thuốc vẫn tăng đáng kể, do đó các nhà nghiên cứu năm 2006 gọi đây là chủng lao kháng thuốc diện rộng (XDR-TB). Dữ liệu theo dõi từ WHO chỉ ra rằng XDR-TB đang có mặt ở ít nhất 58 nước, với khoảng 25,000 ca xuất hiện mỗi năm.
Nhà dịch tễ học Carole Mitnick của Đại học Y Harvard ở Boston, Massachusetts, đồng ý rằng TDR-TB không phải chủng mới, và có liên quan đến lịch sử của XDR-TB. Bà nói rằng: “Khi XDR-TB mới được đặt tên, nó chỉ là một hiện tượng có tồn tại nhưng trước đó chưa được chú ý nhiều. Nói chung lao không được chú ý nhiều cho lắm”.
Chăm sóc không thích hợp
Theo WHO, một phần của tình trạng kháng thuốc gia tăng có liên quan đến các biến chứng phát sinh trong điều trị bệnh nhân nhiễm HIV – 13% những trường hợp lao. Tuy nhiên, phần lớn nhất của vấn đề là từ việc điều trị bệnh.
Mặc dù WHO mô tả lao là một “căn bệnh của nghèo đói”, nhưng các dạng kháng thuốc xuất hiện là do sự điều trị kém. Theo một báo cáo của WHO năm 2011, có ít hơn 5% các bệnh nhân mới được chẩn đoán hoặc vừa được điều trị được làm kiểm tra về tình trạng kháng thuốc. Và chỉ có khoảng 16% các bệnh nhân mắc lao kháng thuốc được điều trị đúng cách.
Migliori nói rằng “Những trường hợp trên là một câu chuyện về việc điều trị kém. Sự kháng thuốc là do con người gây ra, do điều trị sai phương pháp, sai chế độ, sai thời gian điều trị.”
Dù là bệnh lao có thể chữa được hay trở thành kháng thuốc vẫn có nhiều tác nhân ảnh hưởng đến việc điều trị. Dùng sai thuốc hoặc sai phương pháp có thể xảy ra nếu bệnh nhân không tuân theo quá trình điều trị đầy đủ, nếu loại thuốc đúng không được sử dụng hoặc những bệnh nhân không được chẩn đoán lao kháng thuốc và điều trị theo liệu pháp không phù hợp.
Một phần của vấn đề còn liên quan đến kiểm tra lao. Tổ chức WHO khuyến cáo lấy mẫu quét đờm soi kính hiển vi như là một tiêu chuẩn chẩn đoán, đây là một test được phát triển từ hơn 100 năm trước. Mặc dù không tốn kém, nhưng kĩ thuật này có thể cho kết quả âm tính giả, không cung cấp thông tin về tình trạng nhạy cảm thuốc, và kết quả của test có thể mất đến vài tuần – một khoảng thời gian dài mà bệnh nhân có thể dùng sai thuốc hoặc lây truyền bệnh. Tuy nhiên trong năm 2010, WHO đã công nhận một test mới nhanh chóng và hoàn toàn tự động, gọi là Xpert, giúp đánh giá khả năng kháng thuốc rifampicin (được ưu tiên sử dụng trong điều trị). Tính đến tháng 7/2011, có 26 nước đang sử dụng Xpert và 145 nước đủ điều kiện để mua bộ dụng cụ với mức giá được giảm.
Sự thiếu thuốc
Việc không có loại thuốc điều trị lao mới nào được phát triển trong suốt nửa thế kỉ có lẽ đã góp phần vào sự xuất hiện của các chủng không đáp ứng với điều trị. Mitnick nói rằng: “Nếu bạn cứ sử dụng cùng một loại thuốc trong một thời gian dài, việc kháng thuốc là không tránh khỏi.”
Bệnh lao kèm theo HIV là nguyên nhân hàng đầu thế giới gây tử vong do các bệnh truyền nhiễm. Bất chấp những tác động của bệnh lao đối với sức khoẻ con người và sự tăng trưởng kinh tế, nó vẫn không được xếp vào những bệnh ưu tiên của ngành công nghiệp dược phẩm.
Richard Chaisson, giám đốc của Trung tâm nghiên cứu bệnh lao ở trường Sức khoẻ Cộng đồng Johns Hopkins ở Baltimore, Maryland, nói rằng: “Ngành công nghiệp dược phẩm đã ít quan tâm đến lao trong nhiều thập kỉ qua. Họ đã kết luận rằng nó không phải là một thị trường hấp dẫn, không có đủ tiềm năng lợi nhuận.”. Tuy nhiên Chaisson cũng nói thêm rằng: "Ngày nay, khi số lượng quan hệ đối tác giữa nhà nước và tư nhân trong nghiên cứu ngày càng tăng, sẽ dẫn đến một đơn đặt hàng lớn hơn so với thập kỷ trước và điều này làm các nhà công nghiệp lưu tâm."
Tính đến năm 2011, đã có 10 loại thuốc lao mới hoặc được thay đổi trong thử nghiệm lâm sàng có tiềm năng trong việc rút ngắn thời gian điều trị hoặc cải thiện việc điều trị lao kháng thuốc. Những nghiên cứu giai đoạn cuối bao gồm một thử nghiệm giai đoạn III của Bayer nhằm đánh giá xem thuốc kháng sinh moxifloxacin có thể làm giảm thời gian điều trị chuẩn từ 6 tháng xuống 2 tháng hay không. Cả Tibotec và Novartis nằm trong thử nghiệm giai đoạn II cho các sản phẩm đều có thể giúp điều trị các chủng kháng thuốc.
(Nature - doi:10.1038/nature.2012.9797)