"Không có tấm bằng tốt nghiệp ĐH được công nhận trên phạm vi toàn cầu là thiệt thòi của thanh niên Việt Nam khi hội nhập với thế giới. Nhưng thiếu đi tấm "hộ chiếu" đó, những người Việt trẻ vẫn hoàn toàn có thể trau dồi, rèn luyện và tích luỹ kiến thức, kỹ năng, hình thành thái độ để trở thành những công dân toàn cầu “made in Việt Nam”". TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã chia sẻ như vậy.
Ông nói: “Thực ra, công dân toàn cầu chỉ là một cách nói thôi. Nói đến công dân là nói đến người chủ thì nó phải có một thiết chế toàn cầu hoặc chính phủ toàn cầu, để công dân bầu lên và tác động tới chính phủ đó. Với nghĩa đó thì thế giới mới đang trong quá trình hình thành các thiết chế toàn cầu”.
6 phẩm chất để vượt khỏi “luỹ tre làng”
- Nhưng nếu hiểu theo cách phổ thông thì theo ông, một công dân toàn cầu cần có những phẩm chất gì?
Trước hết, công dân toàn cầu phải có tư duy và tầm nhìn toàn cầu. Phải hiểu được thế giới, thấy được đâu là những vấn đề của nhân loại, đâu là cơ hội, đâu là rủi ro.
Con ếch ngồi dưới đáy giếng thì thế giới chỉ là trong cái giếng và vũ trụ chỉ là vành tròn trên miệng giếng. Cũng như nếu anh ở Việt Nam thì chỉ thấy được luỹ tre thôi. Có thể anh là “dân quê sung sướng” nhưng cũng chỉ trong phạm vi đó.
Nếu có tầm tư duy toàn cầu, anh hiểu được rằng nếu học nghề này, mình có thể làm việc được ở Pháp, ở Anh, ở Đức...
Phẩm chất thứ hai, và cũng là hệ quả của cái thứ nhất là phải có một tư duy và cái nhìn rất mở để chấp nhận và tôn trọng những khác biệt trên thế giới.
Thứ ba là phải cảm nhận và chia sẻ trách nhiệm với những vấn đề lớn chung của toàn cầu như trái đất nóng lên, khủng bố, khan hiếm lương thực…
Bên cạnh đó, người công dân toàn cầu phải làm chủ được công cụ để tiếp cận thế giới ảo, để chỉ cần qua con chuột và bàn phím mà biết cả thế giới.
Có hai công cụ quan trọng không thể thiếu: Thứ nhất là công nghệ thông tin và truyền thông, mà đặc biệt là internet. Thứ hai là tiếng Anh vì có những vấn đề toàn cầu xuất hiện bằng tiếng Anh trước, nếu không biết tiếng Anh thì không tiếp cận được.
Một yếu tố quan trọng làm nên công dân toàn cầu là nền tảng tri thức và học thuật được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Học ĐH ở Việt Nam sang Mỹ không làm việc được thì rất khó thành công dân toàn cầu. Ngược lại, nếu anh có bằng tốt nghiệp từ những trường ĐH có tên tuổi thì gần như đã sở hữu tấm hộ chiếu toàn cầu.
Vì thế, muốn cho càng nhiều người VN trở thành công dân toàn cầu thì phải có nền giáo dục được chấp nhận trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, cũng có những bạn trẻ Việt Nam học ĐH trong nước, có đủ phẩm chất cần thiết thì vẫn được các công ty, tập đoàn nước ngoài tuyển dụng và đào tạo thêm. Khi tạo danh tiếng trong công ty thì làm việc ở đâu cũng được. Như vậy họ có thể thành công dân toàn cầu nhưng phải đi đường vòng.
Cuối cùng, người công dân toàn cầu phải hiểu được toàn cầu hoá không loại bỏ bản sắc riêng. Anh làm toàn cầu trở nên phong phú hơn khi anh đưa bản sắc của dân tộc anh vào. Một người công dân toàn cầu thực sự sẽ bổ sung giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình vào nền văn hoá chung toàn cầu. Công dân toàn cầu và công dân Việt không loại trừ nhau.
- Theo đánh giá của ông, hiện nay xét trên mặt bằng chung, trình độ của thanh niên Việt Nam đã đạt được mức độ toàn cầu chưa?
Đây là một câu hỏi tương đối khó trả lời. Vì phải có định lượng, không có công cụ để nghiên cứu. Nhưng cứ lấy ví dụ: trong 6000, 7000 người dự tuyển vào hãng Intel, người ta chỉ chọn được vài chục người theo yêu cầu của họ.
Như vậy,có thể nói số lượng công dân toàn cầu đạt được phẩm chất quốc tế rất khiêm tốn. Đó là bức tranh rất đáng băn khoăn về công dân toàn cầu của Việt Nam.
Thiếu hộ chiếu toàn cầu: có lỗi của người trẻ
- Bằng tốt nghiệp các trường ĐH ở Việt Nam vẫn chưa được quốc tế công nhận trên phạm vi thế giới. Như ông đã nói, điều này đồng nghĩa với việc giới trẻ Việt thiệt thòi vì thiếu đi tấm hộ chiếu toàn cầu. Nhưng đó đâu phải lỗi của những người trẻ?
Thực chất thì không hoàn toàn là lỗi của những người trẻ nhưng cần nhìn nhận từ cả 2 phía.
Cũng như người ta nói rằng: “Một dân tộc sẽ có những lãnh tụ như dân tộc đó xứng đáng được có”. Một nửa vấn đề ở lãnh tụ, một nửa vấn đề ở người dân. Dân đòi hỏi, dân có kỹ năng thực hành dân chủ thì người lãnh đạo phải giỏi.
Còn người học biết đòi hỏi, biết mình muốn gì, có những yêu cầu xác đáng với việc dạy chứ không phải bưng ra gì thì học đấy và tìm mọi cách lấy lòng thầy để được điểm theo kiểu “văn hay nhờ tay thầy chấm”. Trong trường hợp như vậy thì hệ thống không có sức ép để thay đổi.
Ở Mỹ, HS được đăng ký thầy dạy nên nếu thầy dạy lơ mơ thì chẳng học trò nào theo học. Ở Việt Nam cũng có một số trường áp dụng hình thức “trò đánh giá thầy”. Học trò cần đánh giá trung thực, công bằng.
Như vậy có lỗi của nền giáo dục, nhưng không nên nói là SV hoàn toàn không có lỗi gì. Tất nhiên, trong hệ thống này thì phần lỗi của SV ít hơn.
- Vậy ông có lời khuyên cho thanh niên Việt Nam để “sửa lỗi” này?
Trước tiên phải nhớ rằng học là quá trình hai chiều, một nửa do người dạy, một nửa do người học. Có một số điều mà SV có thể tự trau dồi để trở nên hữu ích trong quá trình hội nhập.
Thứ nhất phải học thật. Đừng học vì điểm mà học để có kỹ năng và trở nên thông tuệ. Học để có kiến thức chỉ là việc rất nhỏ. Học để có kỹ năng thu thập kiến thức là khó hơn. Học để có kỹ năng sáng tạo là quan trọng hơn nữa và học để có kỹ năng xử lý các vấn đề của cuộc sống.
Học để được điểm cao thì có thể trùng với học thật một chút. Nhưng nếu thiết kế hệ thống không chuẩn, đa số nó chẳng có ích cho cuộc sống bao nhiêu. Mà bạn chỉ có chừng ấy thời gian, tâm lực và trí lực, phải xác lập ưu tiên trong việc học để học cái gì hữu ích.
Tiếp theo nữa là phải học cách học và học cách hợp tác, làm việc theo đội (teamwork).
Cũng cần phải học tiếng Anh để có thêm công cụ, không phải chỉ để giao tiếp bình thường và chìa khoá mở tri thức mà còn là công cụ để tư duy.
Một lời khuyên không phải mới mẻ mà tôi chỉ lặp lại của ông trùm Microsoft Bill Gates là kỹ năng đọc rất quan trọng. Tri thức nằm ở sách vở. Nhưng phải có kỹ năng đọc.
Nếu bạn đọc sai lĩnh vực thì sẽ chẳng thu nhận được gì. Đọc để giải trí khác với đọc để tìm thông tin, đọc để suy ngẫm.
- Còn trách nhiệm, tư duy và tầm nhìn toàn cầu, liệu người Việt trẻ có thể rèn luyện để hình thành được không?
Những điều này đều xuất phát từ nhận thức. Nếu anh có kiến thức cơ bản về các quy luật tự nhiên và xã hội thì anh sẽ thấy những quy luật đấy gắn kết thế giới lại với nhau.
Nhận thức và tri thức là cơ sở hình thành tầm nhìn toàn cầu. Ví dụ nếu biết việc chạy đến nơi nào có giá lao động rẻ hơn, hàng chảy về nơi nào có giá mua đắt hơn nghĩa là đã có cái nhìn toàn cầu.
Khi có kiến thức thì sẽ hiểu được chuyển động của các quy luật toàn cầu. Ví dụ quy luật của cung-cầu. Chỉ cần khan hiếm thực phẩm là giá tăng. Khan hiếm là do nhiều nơi thấy phát triển công nghiệp có lợi hơn nên bỏ nông nghiệp, do sai lầm đường lối chính sách, thiên tai…
Bên cạnh đó, cần hình thành thói quen giao lưu. Giao lưu ảnh hưởng tới cách suy nghĩ và giao tiếp. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều người nước ngoài nên cơ hội giao lưu không thiếu. Qua internet cũng có thể giao tiếp với họ.
Cũng cần có tầm văn hóa rộng, phải tìm hiểu văn hóa nhiều thì mới có được tầm nhìn toàn cầu.
Ông nói: “Thực ra, công dân toàn cầu chỉ là một cách nói thôi. Nói đến công dân là nói đến người chủ thì nó phải có một thiết chế toàn cầu hoặc chính phủ toàn cầu, để công dân bầu lên và tác động tới chính phủ đó. Với nghĩa đó thì thế giới mới đang trong quá trình hình thành các thiết chế toàn cầu”.
6 phẩm chất để vượt khỏi “luỹ tre làng”
- Nhưng nếu hiểu theo cách phổ thông thì theo ông, một công dân toàn cầu cần có những phẩm chất gì?
Trước hết, công dân toàn cầu phải có tư duy và tầm nhìn toàn cầu. Phải hiểu được thế giới, thấy được đâu là những vấn đề của nhân loại, đâu là cơ hội, đâu là rủi ro.
Con ếch ngồi dưới đáy giếng thì thế giới chỉ là trong cái giếng và vũ trụ chỉ là vành tròn trên miệng giếng. Cũng như nếu anh ở Việt Nam thì chỉ thấy được luỹ tre thôi. Có thể anh là “dân quê sung sướng” nhưng cũng chỉ trong phạm vi đó.
Nếu có tầm tư duy toàn cầu, anh hiểu được rằng nếu học nghề này, mình có thể làm việc được ở Pháp, ở Anh, ở Đức...
Phẩm chất thứ hai, và cũng là hệ quả của cái thứ nhất là phải có một tư duy và cái nhìn rất mở để chấp nhận và tôn trọng những khác biệt trên thế giới.
Thứ ba là phải cảm nhận và chia sẻ trách nhiệm với những vấn đề lớn chung của toàn cầu như trái đất nóng lên, khủng bố, khan hiếm lương thực…
Bên cạnh đó, người công dân toàn cầu phải làm chủ được công cụ để tiếp cận thế giới ảo, để chỉ cần qua con chuột và bàn phím mà biết cả thế giới.
Có hai công cụ quan trọng không thể thiếu: Thứ nhất là công nghệ thông tin và truyền thông, mà đặc biệt là internet. Thứ hai là tiếng Anh vì có những vấn đề toàn cầu xuất hiện bằng tiếng Anh trước, nếu không biết tiếng Anh thì không tiếp cận được.
Một yếu tố quan trọng làm nên công dân toàn cầu là nền tảng tri thức và học thuật được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Học ĐH ở Việt Nam sang Mỹ không làm việc được thì rất khó thành công dân toàn cầu. Ngược lại, nếu anh có bằng tốt nghiệp từ những trường ĐH có tên tuổi thì gần như đã sở hữu tấm hộ chiếu toàn cầu.
Vì thế, muốn cho càng nhiều người VN trở thành công dân toàn cầu thì phải có nền giáo dục được chấp nhận trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, cũng có những bạn trẻ Việt Nam học ĐH trong nước, có đủ phẩm chất cần thiết thì vẫn được các công ty, tập đoàn nước ngoài tuyển dụng và đào tạo thêm. Khi tạo danh tiếng trong công ty thì làm việc ở đâu cũng được. Như vậy họ có thể thành công dân toàn cầu nhưng phải đi đường vòng.
Cuối cùng, người công dân toàn cầu phải hiểu được toàn cầu hoá không loại bỏ bản sắc riêng. Anh làm toàn cầu trở nên phong phú hơn khi anh đưa bản sắc của dân tộc anh vào. Một người công dân toàn cầu thực sự sẽ bổ sung giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình vào nền văn hoá chung toàn cầu. Công dân toàn cầu và công dân Việt không loại trừ nhau.
- Theo đánh giá của ông, hiện nay xét trên mặt bằng chung, trình độ của thanh niên Việt Nam đã đạt được mức độ toàn cầu chưa?
Đây là một câu hỏi tương đối khó trả lời. Vì phải có định lượng, không có công cụ để nghiên cứu. Nhưng cứ lấy ví dụ: trong 6000, 7000 người dự tuyển vào hãng Intel, người ta chỉ chọn được vài chục người theo yêu cầu của họ.
Như vậy,có thể nói số lượng công dân toàn cầu đạt được phẩm chất quốc tế rất khiêm tốn. Đó là bức tranh rất đáng băn khoăn về công dân toàn cầu của Việt Nam.
Thiếu hộ chiếu toàn cầu: có lỗi của người trẻ
- Bằng tốt nghiệp các trường ĐH ở Việt Nam vẫn chưa được quốc tế công nhận trên phạm vi thế giới. Như ông đã nói, điều này đồng nghĩa với việc giới trẻ Việt thiệt thòi vì thiếu đi tấm hộ chiếu toàn cầu. Nhưng đó đâu phải lỗi của những người trẻ?
Thực chất thì không hoàn toàn là lỗi của những người trẻ nhưng cần nhìn nhận từ cả 2 phía.
Cũng như người ta nói rằng: “Một dân tộc sẽ có những lãnh tụ như dân tộc đó xứng đáng được có”. Một nửa vấn đề ở lãnh tụ, một nửa vấn đề ở người dân. Dân đòi hỏi, dân có kỹ năng thực hành dân chủ thì người lãnh đạo phải giỏi.
Còn người học biết đòi hỏi, biết mình muốn gì, có những yêu cầu xác đáng với việc dạy chứ không phải bưng ra gì thì học đấy và tìm mọi cách lấy lòng thầy để được điểm theo kiểu “văn hay nhờ tay thầy chấm”. Trong trường hợp như vậy thì hệ thống không có sức ép để thay đổi.
Ở Mỹ, HS được đăng ký thầy dạy nên nếu thầy dạy lơ mơ thì chẳng học trò nào theo học. Ở Việt Nam cũng có một số trường áp dụng hình thức “trò đánh giá thầy”. Học trò cần đánh giá trung thực, công bằng.
Như vậy có lỗi của nền giáo dục, nhưng không nên nói là SV hoàn toàn không có lỗi gì. Tất nhiên, trong hệ thống này thì phần lỗi của SV ít hơn.
- Vậy ông có lời khuyên cho thanh niên Việt Nam để “sửa lỗi” này?
Trước tiên phải nhớ rằng học là quá trình hai chiều, một nửa do người dạy, một nửa do người học. Có một số điều mà SV có thể tự trau dồi để trở nên hữu ích trong quá trình hội nhập.
Thứ nhất phải học thật. Đừng học vì điểm mà học để có kỹ năng và trở nên thông tuệ. Học để có kiến thức chỉ là việc rất nhỏ. Học để có kỹ năng thu thập kiến thức là khó hơn. Học để có kỹ năng sáng tạo là quan trọng hơn nữa và học để có kỹ năng xử lý các vấn đề của cuộc sống.
Học để được điểm cao thì có thể trùng với học thật một chút. Nhưng nếu thiết kế hệ thống không chuẩn, đa số nó chẳng có ích cho cuộc sống bao nhiêu. Mà bạn chỉ có chừng ấy thời gian, tâm lực và trí lực, phải xác lập ưu tiên trong việc học để học cái gì hữu ích.
Tiếp theo nữa là phải học cách học và học cách hợp tác, làm việc theo đội (teamwork).
Cũng cần phải học tiếng Anh để có thêm công cụ, không phải chỉ để giao tiếp bình thường và chìa khoá mở tri thức mà còn là công cụ để tư duy.
Một lời khuyên không phải mới mẻ mà tôi chỉ lặp lại của ông trùm Microsoft Bill Gates là kỹ năng đọc rất quan trọng. Tri thức nằm ở sách vở. Nhưng phải có kỹ năng đọc.
Nếu bạn đọc sai lĩnh vực thì sẽ chẳng thu nhận được gì. Đọc để giải trí khác với đọc để tìm thông tin, đọc để suy ngẫm.
- Còn trách nhiệm, tư duy và tầm nhìn toàn cầu, liệu người Việt trẻ có thể rèn luyện để hình thành được không?
Những điều này đều xuất phát từ nhận thức. Nếu anh có kiến thức cơ bản về các quy luật tự nhiên và xã hội thì anh sẽ thấy những quy luật đấy gắn kết thế giới lại với nhau.
Nhận thức và tri thức là cơ sở hình thành tầm nhìn toàn cầu. Ví dụ nếu biết việc chạy đến nơi nào có giá lao động rẻ hơn, hàng chảy về nơi nào có giá mua đắt hơn nghĩa là đã có cái nhìn toàn cầu.
Khi có kiến thức thì sẽ hiểu được chuyển động của các quy luật toàn cầu. Ví dụ quy luật của cung-cầu. Chỉ cần khan hiếm thực phẩm là giá tăng. Khan hiếm là do nhiều nơi thấy phát triển công nghiệp có lợi hơn nên bỏ nông nghiệp, do sai lầm đường lối chính sách, thiên tai…
Bên cạnh đó, cần hình thành thói quen giao lưu. Giao lưu ảnh hưởng tới cách suy nghĩ và giao tiếp. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều người nước ngoài nên cơ hội giao lưu không thiếu. Qua internet cũng có thể giao tiếp với họ.
Cũng cần có tầm văn hóa rộng, phải tìm hiểu văn hóa nhiều thì mới có được tầm nhìn toàn cầu.